Hot line: 0962.893.900

Một số vấn đề bất cập về quyền tác giả, liên quan đến phát luật sở hữ trí tuệ


I. cơ sở pháp lý:

- Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi 2009

II. Nội dung

Luật Sở hữu trí tuệ được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/11/2005 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2006, trong suốt thời gian triển khai thi hành Luật thì tình trạng vi phạm pháp luật và xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ không hề giảm đi mà vẫn có su hướng gia tăng, dẫn đến hiện tượng là pháp luật về sở hữu trí tuệ còn nhiều bất cập. sau đây Công ty Luật TNHH Quốc tế Hồng Thái và Đồng Nghiệp sẽ phân tích một số bất cập của pháp luật sở hữu trí tuệ hiện hành về quyền tác giả.

shtt.jpg

Quyền sở hữu trí tuệ về quyền tác giả

1. Về quyền tác giả

Mặc dù Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi năm 2009 quy định: Tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học…, đồng thời Nghị định này không quy định tác giả là pháp nhân, do đó có thể nói rằng tác giả chỉ có thể là cá nhân.

Pháp luật Việt Nam về sở hữu trí tuệ cũng không quy định về thuật ngữ đồng tác giả mà mặc nhiên quan niệm trong trường hợp có từ hai tác giả trở lên cùng sáng tạo nên một tác phẩm thì họ là các đồng tác giả của tác phẩm đó. Tuy nhiên việc này chỉ điều chỉnh được mối quan hệ về quyền tài sản đối với tác phẩm giữa các đồng tác giả đối với các trường hợp sau:

 1) Tác phẩm được coi là đồng sở hữu chung duy nhất;

 2) Tác phẩm được coi là đồng sở hữu chung theo phần, trường hợp này được điều chỉnh bởi Điều 38 của Luật sở hữu trí tuệ các đồng tác giả sáng tạo ra tác phẩm, nếu có phần riêng biệt có thể tách ra sử dụng độc lập mà không làm phương hại đến phần của các đồng tác giả khác thì có các quyền nhân thân và quyền tài sản đối với phần riêng biệt đó.

2. Về chủ sở hữu quyền tác giả

Chủ sở hữu quyền tác giả  xuất hiện tại Điều 13 và một số điều khác của Luật sở hữ trí tuệ. Trong đó, Điều 36 đã quy định Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản quy định tại Điều 20 Luật sở hữu trí tuệ 2005. Quy định trên đây là chưa chính xác, bởi lẽ nội dung của quyền tác giả được quy định tại Điều 18 Luật sở hữu trí tuệ 2005 bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản, vậy về mặt hình thức thì chủ sở hữu quyền tác giả phải nắm toàn bộ nội dung quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Nhưng như Điều 36 Luật sở hữu trí tuệ 2005 quy định cho thấy chủ sở hữu quyền tác giả chỉ nắm quyền tài sản chứ không hề nắm quyền nhân thân.

Mặt khác, người nắm giữ toàn bộ quyền tài sản đối với tác phẩm thì có quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm như được quy định tại Khoản 3 Điều 19 Luật sở hữu trí tuệ 2005. Vì vậy, tác giả đề xuất hoàn thiện vấn đề này theo hướng sau:

 1) Sửa đổi chủ sở hữu quyền tác giả thành chủ sở hữu tác phẩm;

2) Quy định thêm chủ sở hữu tác phẩm có quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm.

3. Về đối tượng của quyền liên quan

Khoản 3 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005 quy định: Quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi là quyền liên quan) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.

Như vậy quyền liên quan được hiểu là nó phải liên quan đến quyền tác giả, hay nói cách khác nó chỉ được phát sinh trên cơ sở đã tồn tại một hoặc một số những tác phẩm trước đó.

Nhưng Khoản 3 Điều 16 Luật sở hữu trí tuệ 2005 quy định: Tổ chức, cá nhân định hình lần đầu âm thanh, hình ảnh của cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh, hình ảnh khác. Như vậy các âm thanh, hình ảnh khác trong quy định này có thể được hiểu là âm thanh, hình ảnh không liên quan đến quyền tác giả, ví dụ một người ghi tiếng chim hót, vượn kêu, hình sư tử, chim công nhảy múa trong rừng hoặc bản ghi hình một lễ hội… ở đây Luật lại không định nghĩa cụ thể về tác phẩm, trong đó có tác phẩm nghệ thuật, bởi vậy nó được bảo hộ quyền tác giả chứ không phải được bảo hộ theo quyền liên quan.

Tuy nhiên, trên thực tế cũng cần bàn thêm khi đưa bản ghi hình là một đối tượng của quyền liên quan, Luật đã đưa thêm một đối tượng mới vào phạm vi bảo hộ, mà cho đến nay chưa có một điều ước quốc tế nào quy định.

4. Về quyền nhân thân

Quyền nhân thân có thể được chia thành quyền nhân thân không thể chuyển giao(quy định tại các Khoản 1, 2, 4 Điều 19 của Luật sở hữu trí tuệ 2005 quy định về quyền nhân thân có thể chuyển giao (quy định tại Khoản 3 Điều 19 của Luật sở hữu trí tuệ 2005), quyền nhân thân không thể chuyển giao được.

Bảo về sự toàn vẹn tác phẩm không gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả có thể làm cho khoản 4 Điều 19 của Luật sở hữu trí tuệ 2005 được hiểu là nếu một người thực hiện hành vi sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm của người khác nhưng lại chứng minh được là hành vi đó không gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả hoặc chứng minh là hành vi đó không gây  cho tác phẩm lên thì không vi phạm khoản 4 Điều 19 Luật sở hữu trí tuệ 2005.

5. Về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian

Khoản 1 Điều 23 Luật sở hữu trí tuệ 2005 quy định

1. Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là sáng tạo tập thể trên nền tảng truyền thống của một nhóm hoặc các cá nhân nhằm phản ánh khát vọng của cộng đồng, thể hiện tương xứng đặc điểm văn hoá và xã hội của họ, các tiêu chuẩn và giá trị được lưu truyền bằng cách mô phỏng hoặc bằng cách khác. Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian bao gồm:

a) Truyện, thơ, câu đố;

b) Điệu hát, làn điệu âm nhạc;

c) Điệu múa, vở diễn, nghi lễ và các trò chơi;

d) Sản phẩm nghệ thuật đồ hoạ, hội hoạ, điêu khắc, nhạc cụ, hình mẫu kiến trúc và các loại hình nghệ thuật khác được thể hiện dưới bất kỳ hình thức vật chất nào.

Bên cạnh đó còn nhiều bất cập khi quy định về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian, như không thể biết chính xác ai là người lưu giữ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian, chưa có quy định về mối quan hệ giữa tác giả của tác phẩm phát sinh từ tác phẩm gốc là tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian với người lưu giữ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian….

6. Một số bất cập khác

Khoản 12 Điều 28 Luật sở hữu trí tuệ 2005 quy định hành vi cố ý huỷ bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình là xâm phạm quyền tác giả. Nên đặt quy định này trong một điều khoản khác, bởi lẽ không thể coi các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm là một bộ phận của tác phẩm, vì nội dung của quyền tác giả chỉ bao gồm quyền nhân thân (được quy định tại Điều 19 của Luật sở hữu trí tuệ 2005) và quyền tài sản (được quy định tại Điều 20 của Luật sở hữu trí tuệ 2005).

Tu van phap luat.png

Công ty Luật TNHH Quốc tế Hồng Thái và Đồng Nghiệp


Hy vọng rằng sự tư vấn của chúng tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu còn bất cứ thắc mắc gì liên quan đến sự việc bạn có thể liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Quốc tế Hồng Thái và Đồng Nghiệp qua tổng đài tư vấn pháp luật 0962893900 hoặc E-mail:phonggiayphep.hilap@gmail.com

Trụ sở chính: LK9-38 Tổng cục 5, Tân Triều, Hà Nội (cuối đường Chiến Thắng, Thanh Xuân).

Địa chỉ chi nhánh: 134 Khuất Duy Tiến, Thanh Xuân, Hà Nội.

Xuân kết


Một số vấn đề bất cập về quyền tác giả, liên quan đến phát luật sở hữ trí tuệ (05:47 | 20/03/2020)
Thừa kế, Gia hạn văn bằng giải pháp hữu ích ? (11:14 | 10/03/2020)
Gia hạn văn bằng giải pháp hữu ích bạn đang có vướng mắc trong vấn đề này bài đọc dưới đây giúp bạn...
Công thức nấu ăn có thể được bảo hộ sở hữu trí tuệ không? (04:39 | 09/03/2020)



Gửi thông tin cần tư vấn


Họ tên(*)

Số điện thoại(*)
Fax
Email
Địa chỉ
Yêu cầu



Giới thiệu Thành lập doanh nghiệp Tư vấn đầu tư
Thuế/ Lao động / Bảo hiểm xã hội Sở hữu trí tuệ Tư vấn doanh nghiệp
Liên hệ Văn bản pháp luật Tra cứu
GIải quyết tranh chấp Giải trí