Quy định pháp luật hiện hành chưa có chế định "Ly thân" tuy nhiên tại Dự thảo Báo cáo Sơ kết thi hành Luật HN&GĐ 2014 đề xuất thêm chế định này vào Luật Hôn nhân gia đình hoặc ghi nhận chế định ly thân là căn cứ cho ly hôn.
Toàn văn Dự thảo Báo cáo Sơ kết thi hành Luật HN&GĐ 2014:
BỘ TƯ PHÁP
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
|
Số: /BC-BTP
|
Hà Nội, ngày
tháng 7 năm 2019
|
BÁO CÁO
Sơ kết thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
Thực
hiện Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Bộ Tư pháp tổ chức hoạt
động sơ kết 03 năm thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 (Luật HNGĐ) để kịp
thời đánh giá những tác động tích cực, nhận diện những vấn đề bất cập, vướng mắc,
trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp phù hợp về xây dựng pháp luật, áp dụng
pháp luật và nâng cao nhận thức của cơ quan, tổ chức, người dân về pháp luật
hôn nhân và gia đình.
Việc
tổ chức hoạt động sơ kết được thực hiện tại 10 Bộ, ngành, tổ chức ở Trung ương;
63/63 Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là
địa phương). Đến nay, Bộ Tư pháp đã nhận được Báo cáo sơ kết của 08 Bộ, ngành, tổ chức ở Trung ương và 61 địa phương. Trên cơ sở ý kiến của các thiết
chế này, Bộ Tư pháp xây dựng Báo cáo sơ kết thi hành Luật HNGĐ.
A. KẾT QUẢ CỦA CÔNG TÁC THI HÀNH LUẬT
I. Trong
công tác xây dựng thể chế
1. Xây dựng văn bản quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Công tác xây dựng văn bản hướng dẫn thi
hành Luật HNGĐ đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần đưa Luật đi vào cuộc
sống. Trong đó, Chính phủ đã kịp thời ban hành các nghị định để quy định chi tiết
và biện pháp thi hành Luật;
Bộ Tư pháp, Bộ Y tế đã ban hành nhiều thông tư Luật hướng dẫn thi hành các nghị
định của Chính phủ về thi hành Luật;
Tòa án nhân dân tối cao đã chủ trì, phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Bộ Tư pháp ban hành Thông tư liên tịch và các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao để hướng dẫn áp dụng thống nhất trong công tác xét xử
các vụ việc dân sự nói chung, hôn nhân và gia đình nói riêng.
Trong xây dựng, hoàn thiện các văn bản
pháp luật khác có liên quan, như Bộ luật dân sự năm 2015 (BLDS), Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015, Luật trẻ em năm 2016… Chính phủ và Quốc hội đã kịp thời sửa đổi,
bổ sung các điều luật liên quan để đảm bảo đồng bộ, thống nhất với Luật HNGĐ.
Những kết quả đạt được của công tác thể chế
nêu trên đã đóng vai trò tích cực, bảo đảm tính cụ thể và khả thi của các quy định
của Luật HNGĐ; bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong quy định, áp dụng pháp luật.
Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực, quan hệ
cụ thể, hệ thống quy phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình còn chưa kịp thời
hoàn thiện, chưa đảm bảo tính bao quát, bảo đảm tính đầy đủ về cơ sở pháp lý
trong giải quyết những vấn đề phát sinh của thực tiễn (xem mục B.II của Báo cáo
này).
2. Xây dựng danh mục tập
quán về hôn nhân và gia đình
Thi hành Luật HNGĐ, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 quy định chi tiết một số điều và biện
pháp thi hành Luật HNGĐ (Nghị định số 126/2014/NĐ-CP), trong đó hướng dẫn về phạm
vi điều chỉnh, áp dụng tập quán về hôn nhân và gia đình. Thực hiện Nghị định số
126/2014/NĐ-CP, các địa phương đã ban hành Kế hoạch triển khai xây dựng danh mục
tập quán về hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, vì lý do khách quan, chủ quan khác
nhau, tính đến thời điểm hiện tại, về cơ bản, các địa phương không hoàn thành
nhiệm vụ được giao tại Điều 6 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP.
Một trong số các khó khăn được các địa phương đề cập đến trong việc thực hiện
nhiệm vụ này là: (1) Đây là vấn đề phức tạp, còn có nhiều ý kiến khác nhau
trong quá trình thực hiện, do đó, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể hơn; (2) Địa
phương đề nghị cơ quan có thẩm quyền xác định rõ Nghị quyết của Hội đồng nhân
dân tỉnh phê duyệt danh mục các tập quán về hôn nhân và gia đình được ban hành
dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật hay văn bản cá biệt; (3) Tập quán được
áp dụng cho những quan hệ cụ thể khi không có quy định của pháp luật, do đó việc
xác định tập quán nào được áp dụng hay không được áp dụng cần có vai trò quan
trọng của Tòa án.
II. Trong công tác tổ
chức thi hành Luật
1. Trong công tác quản lý nhà nước về
gia đình
Thi hành Luật HNGĐ về việc cấm bạo lực gia
đình và thực hiện Luật phòng, chống bạo lực gia đình, các văn bản pháp luật
khác có liên quan, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về công tác gia đình
đã tích cực, chủ động triển khai các nhiệm vụ về phòng, chống bạo lực gia đình.
Bên cạnh đó, công tác phối hợp liên ngành về phòng, chống bạo lực gia đình cũng
được triển khai hiệu quả. Từ năm 2017-2018, các bộ, ngành đều họp theo định kỳ
6 tháng, 1 năm để đánh giá những kết quả đã đạt được và nhiệm vụ trọng tâm thời
gian tiếp theo.
Bên cạnh đó, để kịp thời đưa các quy định
của Luật HNGĐ về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các thành viên gia đình vào
cuộc sống, nhiều hoạt động xây dựng các mô hình về gia đình được cơ quan quản
lý nhà nước về gia đình xây dựng và triển khai dựa trên quan điểm: hỗ trợ các
gia đình thực hiện tốt các chức năng của mình thông qua các hoạt động nâng cao
năng lực, cung cấp kiến thức, kỹ năng và thứ hai là can thiệp, giảm thiểu các
biểu hiện tiêu cực ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững của các gia đình như bạo
lực gia đình, tệ nạn xã hội…
2. Trong công tác hộ tịch
Để bảo đảm hiệu quả, kịp thời trong thi
hành Luật HNGĐ trên lĩnh vực hộ tịch, tạo điều kiện cho người dân được công nhận,
tôn trọng các quyền về hôn nhân và gia đình, hàng năm, Bộ Tư pháp đã tổ chức
nhiều đoàn kiểm tra, khảo sát, đánh giá tình hình đăng ký và thống kê hộ tịch tại
địa phương.
Những vướng mắc trong quá trình thực hiện yêu cầu đăng ký kết hôn, nhận cha, mẹ,
con tại địa phương đều đã được các Đoàn công tác của Bộ trao đổi, hướng dẫn các
cơ quan đăng ký hộ tịch hướng xử lý, bảo đảm giải quyết yêu cầu đăng ký hộ tịch
cho người dân.
Bộ Tư pháp cũng thường xuyên trao đổi với
các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh sự của nước ngoài tại Việt
Nam đề nghị cung cấp thông tin pháp luật liên quan đến việc đăng ký kết hôn, cấp
giấy tờ xác nhận/ chứng minh tình trạng hôn nhân, từ đó hướng dẫn địa phương giải
quyết yêu cầu đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài kịp thời, đúng quy định pháp
luật. Ở một số địa phương nhiều phụ nữ trước khi làm thủ tục đăng ký kết hôn đã
đến với các Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
để được tư vấn về mặt tâm lý, văn hóa, pháp luật, phong tục tập quán… từ đó
giúp họ có vốn kiến thức nhất định khi ra nước ngoài.
Tại các địa phương, công tác đăng ký và quản
lý hộ tịch được thực hiện nghiêm túc, có nhiều chuyển biến tích cực. Việc tiếp
nhận và giải quyết hồ sơ đăng ký hộ tịch được thực hiện nhanh chóng, đúng quy định
pháp luật; hệ thống cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch được củng cố; hệ thống sổ
sách, dữ liệu hộ tịch
được lưu trữ và sử dụng lâu dài.
3. Trong công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật
Bộ Tư pháp đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ,
ngành, địa phương và tổ chức có liên quan tiến hành nhiều hoạt động phổ biến,
giáo dục pháp luật, như:
- Ban hành các Chương trình, Đề án, Kế hoạch
công tác, Công văn hướng dẫn nghiệp vụ về hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật
để hướng dẫn các bộ, ngành, đoàn thể, địa phương đưa hoạt động phổ biến, giáo dục
pháp luật về Luật HNGĐ vào nội dung trọng tâm cần tuyên truyền, phổ biến.
- Tổ chức biên soạn, phát hành hoặc đăng tải
lên Trang thông tin điện tử phổ biến, giáo dục pháp luật các tài liệu tuyên
truyền, phổ biến về các quy định pháp luật về Luật HNGĐ.
- Tổ chức các hội nghị, hội thảo tập huấn
cho báo cáo viên pháp luật, cán bộ chủ chốt làm công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật; giáo viên dạy môn giáo dục công dân, pháp luật của các cơ sở giáo dục...
Vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, đội ngũ báo cáo viên pháp luật,
tuyên truyền viên pháp luật, già làng, trưởng thôn, trưởng bản, người có uy tín
trong cộng đồng được coi trọng trong tham gia tuyên truyền, vận động, thuyết phục
đồng bào, người dân nghiêm túc thực hiện chính sách, pháp luật về hôn nhân và
gia đình, xóa bỏ hủ tục lạc hậu về hôn nhân và gia đình…
- Thực hiện các hoạt động thông tin, truyền
thông trên các phương tiện thông tin đại chúng về việc thực hiện chính sách,
pháp luật về Luật HNGĐ với các chuyên trang, chuyên mục đa dạng về hình thức, nội
dung sinh động…
- Phối hợp chặt chẽ với Bộ Giáo dục và Đào
tạo chỉ đạo, hướng dẫn các Sở Giáo dục và Đào tạo, Ban Giám hiệu nhà trường
tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trang bị kiến thức pháp luật,
kỹ năng áp dụng pháp luật cho học sinh, sinh viên tìm hiểu pháp luật hôn nhân
và gia đình.
- Phát huy hiệu quả của Tủ sách pháp luật
về hôn nhân và gia đình và xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực này trong
nâng cao nhận thức pháp luật cho nhân dân; chỉ đạo, hướng dẫn cập nhật, bổ sung
các đầu sách mới trong Tủ sách pháp luật của cấp xã, cơ quan, đơn vị, doanh
nghiệp, trường học.
- Tổ chức Cuộc thi sáng tác tiểu phẩm pháp
luật năm 2018 thuộc phạm vi thực hiện Đề án “Tăng cường công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật tại một số địa bàn trọng điểm về vi phạm pháp luật giai đoạn
2017-2021” trong đó có định hướng chủ đề nội dung các tác phẩm dự thi liên quan
đến các hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình…
Ccác Bộ, ngành, địa phương, tổ chức có
liên quan trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình cũng đã chủ động tiến hành
các hoạt động để thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hôn
nhân và gia đình như tổ chức các hội nghị triển khai, tập huấn; tuyên truyền miệng
thông qua "Ngày pháp luật", sinh hoạt các chi, tổ, hội; thông qua các
mô hình (mô hình câu lạc bộ phụ nữ chấp hành pháp luật, câu lạc bộ phụ nữ có
người thân không vi phạm pháp luật, câu lạc bộ tiền hôn nhân...); tổ chức tọa
đàm, nói chuyện chuyên đề giới thiệu những nội dung cơ bản của Luật HNGĐ và các
văn bản hướng dẫn thi hành; cấp phát tờ rơi tuyên truyền; tổ chức truyền thông
bằng xe lưu động, tuyên truyền trực quan bằng băng rôn, khẩu hiệu…
4. Trong công tác xét xử
của ngành Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân tối cao đã triển khai thực
hiện Luật nghiêm túc, kịp thời và toàn diện trong toàn hệ thống Tòa án, đồng thời
chủ động ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành Luật HNGĐ nói chung và hướng dẫn giải quyết các vụ việc hôn nhân
và gia đình nói riêng. Theo đánh giá của Tòa án nhân dân tối cao, từ ngày
01/01/2015 đến ngày 31/12/2018, các vụ việc về hôn nhân và gia đình ngày càng
tăng về số lượng cũng như mức độ phức tạp, gay gắt. Các vụ việc ly hôn có xu hướng
diễn ra ở các cặp vợ chồng trẻ (độ tuổi từ 28-35), thời gian kết hôn ngắn. Tính
chất gay gắt, phức tạp chủ yếu liên quan đến các tranh chấp về tài sản chung,
riêng như bất động sản, cổ phần, cổ phiếu trong các công ty… hoặc về con chung,
mức độ cấp dưỡng. Các tranh chấp về hôn nhân và gia đình có nguyên nhân chủ yếu
do bất đồng về quan điểm, lối sống, khó khăn về kinh tế hoặc vì lý do một bên
ngoại tình, không quan tâm chăm sóc bên còn lại hoặc con cái… Mặc dù có những
khó khăn, diễn biến phức tạp như vậy nhưng hệ thống Tòa án đã giải quyết các vụ
việc hôn nhân và gia đình đạt hiệu quả cao cả về tố tụng, nội dung giải quyết, quyền,
lợi ích chính đáng của các chủ thể hôn nhân và gia đình, nhất là phụ nữ, trẻ em
và người yếu thế được thực hiện, bảo vệ kịp thời. Tuy nhiên, trong giải quyết một
số vụ, việc cụ thể về hôn nhân và gia đình vẫn còn một số vấn đề pháp lý có những
ý kiến khác nhau nhưng chưa được Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn kịp thời
(xem mục B.II của Báo cáo này).
5. Trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Hội liên
hiệp phụ nữ Việt Nam
- Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam
đã tập trung chỉ đạo, hướng dẫn các cấp Hội xây dựng kế hoạch và tổ chức triển
khai các nội dung của Luật, chú trọng các nội dung đảm bảo quyền của phụ nữ và
bình đẳng giới trong các quan hệ hôn nhân và gia đình; xác định nhiệm vụ hỗ trợ
phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc thông qua triển khai nhiều
hoạt động đảm bảo quyền của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và gia đình.
Bên cạnh đó, công tác tư vấn, hỗ trợ
hôn nhân, gia đình từng bước được các cấp hội đẩy mạnh
thông qua nhiều mô hình hoạt động đa dạng, linh hoạt, như: các mô hình cung cấp kiến
thức, kỹ năng;
nhóm
các mô hình hỗ trợ và bảo vệ an toàn cho phụ nữ và trẻ em trong gia đình;
nhóm
các mô hình cung cấp dịch vụ gia đình. Ngoài
ra, hoạt động cung cấp kiến thức, kỹ năng, giáo dục tiền hôn nhân được một số tỉnh,
thành Hội triển khai bước đầu có kết quả, điển hình là thành phố Hồ Chí Minh.
- Về việc tham gia bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ
và trẻ em, các cấp Hội chủ
yếu thực hiện các quyền thông qua việc kiến nghị giải quyết đơn thư,
khiếu nại, tố cáo liên quan đến hôn nhân, gia đình bằng văn bản gửi đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo từng trường hợp. Về thực hiện quyền khởi kiện trong giải quyết
vụ việc hôn nhân và gia đình trong các tranh chấp về hôn nhân và gia đình, qua hơn 03 năm triển khai Luật, các cấp Hội chưa trực tiếp yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái
pháp luật, thay đổi người trực tiếp
nuôi con sau khi ly hôn, hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên, yêu cầu xác định cha, mẹ, con, yêu cầu
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
- Về tham gia công tác hòa giải ở cơ sở, hàng năm, các cấp Hội phối
hợp với các bộ, ban ngành cùng cấp chỉ đạo và hướng dẫn tổ chức thực hiện, củng
cố và kiện toàn các Tổ hòa giải ở cơ sở, lựa chọn giới thiệu người có uy tín, đạo
đức, kinh nghiệm, kiến thức pháp luật, kỹ năng tại cơ sở để giới thiệu tham gia
tổ hòa giải. Một số địa phương đã mời hội viên phụ nữ là luật gia, luật sư, công
chức, thẩm phán, hội thẩm nhân dân tham gia hỗ trợ hòa giải viên trong hoạt động
hòa giải ở cơ sở.
Căn cứ các chỉ đạo, hướng dẫn của TW, các
tỉnh/thành Hội đã ban hành nhiều loại văn bản khác nhau có
xác định riêng nội dung chỉ đạo triển khai thực hiện pháp luật về hôn nhân và
gia đình hoặc lồng ghép với các nội dung khác phù hợp với thời điểm và tình
hình địa phương.
B. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ QUY ĐỊNH VÀ ÁP DỤNG QUY
ĐỊNH CỦA LUẬT HNGĐ, VĂN BẢN QUY ĐỊNH CHI TIẾT LUẬT
I. Đánh giá chung
- Qua thực tiễn thi hành Luật
cho thấy, Luật HNGĐ đã có những quy định đột phá về công nhận, tôn trọng, bảo vệ,
bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình,
dành được sự đồng thuận cao cả trong nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp luật,
nhất là các quy định về quyền kết hôn, quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản giữa
vợ và chồng, xác định cha, mẹ, con, quyền, nghĩa vụ nhân thân giữa các thành
viên gia đình, cơ chế pháp lý về bảo đảm bình đẳng giới, bảo vệ bà mẹ, trẻ em,
người yếu thế, bảo đảm hài hòa giữa lợi ích của gia đình với lợi ích của cá
nhân, tổ chức khác; phát huy các giá trị truyền thống, tiến bộ, văn minh của
gia đình Việt Nam.
- Quy định của Luật HNGĐ và
các văn bản hướng dẫn cơ bản đã đảm bảo sự đồng bộ, thống
nhất với văn bản pháp luật có liên quan, như BLDS, Bộ luật tố
tụng dân sự, Luật đất đai, Luật bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em, Luật bình đẳng giới, Luật phòng, chống
bạo lực gia đình, Luật quốc tịch, Luật nuôi con
nuôi…
- Luật HNGĐ và các văn hướng dẫn đã làm rõ hơn về chức
năng, thẩm quyền của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong thi hành, áp dụng
pháp luật về hôn nhân và gia đình, qua đó góp phần bảo đảm quyền về hôn nhân và
gia đình của người dân được công nhận, tôn trọng, thực hiện, bảo vệ kịp thời,
hiệu quả.
Luật HNGĐ đã quy định tập quán là một
công cụ pháp lý để giải quyết các quan hệ hôn
nhân và gia đình trong trường hợp không có quy định của pháp luật. Chính phủ tại
Nghị định số 126/2014/NĐ-CP cũng đã quy định cụ thể về nguyên tắc áp dụng tập
quán, thỏa thuận về áp dụng tập quán, giải quyết vụ việc có áp dụng tập quán.
Tòa án nhân dân tối cao tại văn bản số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 cũng đã
hướng dẫn cụ thể về việc áp dụng tập quán mà các bên có viện dẫn tập quán khác
nhau. Có thể nói đây là một bước tiến lớn trong nhận thức, áp dụng tập quán
trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, để bảo đảm hơn
tính khả thi của quy định này, bên cạnh bất cập về công tác xây dựng danh mục tập
quán về hôn nhân và gia đình tại mục A.I.2 của Báo cáo này; qua Báo cáo của một
số Bộ, ngành, địa phương cho thấy thì công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức
của người dân về việc áp dụng tập quán cần được nâng cao hơn, việc xây dựng nguồn
tập quán áp dụng cần được hiệu quả hơn, vai trò của Tòa án nhân dân tối cao
trong công tác hướng dẫn xét xử cũng cần được nâng cao hơn.
Quy định của Luật HNGĐ về điều kiện kết hôn, đăng ký kết
hôn và đường lối giải quyết hủy kết hôn trái pháp luật, xử lý kết hôn không
đúng thẩm quyền, giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn đã có nhiều tiến bộ, đột phá so với Luật HNGĐ
năm 2000. Về cơ bản, đã bảo đảm tốt hơn việc thực hiện quyền kết hôn của người
dân theo tinh thần Hiến pháp cũng như bảo đảm hiệu quả trong công tác quản lý
nhà nước có liên quan, hạn chế những vấn đề bất cập trong các quan hệ xã hội về
hôn nhân và gia đình.
Tuy nhiên, để bảo đảm hơn tính khả thi, tính thống nhất
trong quy định pháp luật về vấn đề này, có một số vấn đề pháp lý được đặt ra, cần
được tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện hơn về thể chế hoặc cấp có thẩm quyền có
hướng dẫn cụ thể.
2.1. Về
điều kiện kết hôn
a) Về tuổi kết hôn
Việc Luật HNGĐ quy định tuổi kết
hôn của nữ là đủ 18 tuổi, tuổi kết hôn của nam là đủ 20 tuổi về cơ bản là sự kế
thừa của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, góp phần làm cho việc kết hôn
và quan hệ hôn nhân được lành mạnh, góp phần thực hiện tốt chức năng xã hội của
hôn nhân. Tuy nhiên, việc quy định tuổi kết hôn chênh lệch của nam và nữ cũng đặt
ra vấn đề về bảo đảm bình đẳng giới, về sự đồng bộ với năng lực hành vi dân sự
của người thành niên trong BLDS.
Về áp dụng pháp luật, thực
tiễn áp dụng quy định về tuổi kết hôn cho thấy tình trạng tảo hôn vẫn diễn ra
phổ biến ở khu vực miền núi, dân tộc thiểu số. Theo khảo sát quốc gia về tình
hình kinh tế xã hội 53 dân tộc thiểu số cho thấy tỷ lệ tảo hôn của 53 dân tộc
thiểu số lên tới 26,59% (nam 26,04% và nữ 27,12%). Nghiên cứu của nhóm bác sĩ bệnh
viện Phụ sản trung ương cho thấy, trong năm 2017 - 2018, tỷ lệ sinh ở tuổi vị
thành niên tại bệnh viện ở mức cao với 227 sản phụ, trong đó, có 178 trường hợp
đã lập gia đình. Số sản phụ 17 - 18 tuổi chiếm 83,5%, 34 sản phụ từ 14 - 16 tuổi.
Vấn đề này đang gặp rất nhiều khó khăn về phương hướng giải quyết. Bà con vùng
đồng bào dân tộc hiểu quy định của pháp luật về tuổi kết hôn nhưng do phong tục,
tập quán đã đi vào cuộc sống của người dân từ rất lâu đời, các gia đình thường
dựng vợ gả chồng cho con từ rất sớm nên mặc dù việc kết hôn không được đăng ký
tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng hai bên gia đình vẫn tổ chức đám cưới
theo phong tục, tập quán, họ hàng hai bên, cộng đồng dân cư của cả bản vẫn mặc
nhiên công nhận đó là một cặp vợ chồng.
b) Về kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa
những người có họ
trong phạm vi ba đời
Quy định về cấm kết hôn giữa những người cùng dòng máu
về trực hệ, giữa những người có họ trong phạm vi ba đời khi áp dụng tại các
vùng dân tộc thiểu số cho thấy tính khả thi còn chưa cao, vẫn còn tình trạng kết
hôn cận huyết; có địa
phương còn xảy ra tình trạng nam nữ chỉ kết hôn với những người cùng dòng họ...
c) Về năng lực hành vi dân sự trong kết hôn
Theo quy định của Luật HNGĐ thì người bị mất năng lực
hành vi dân sự không được kết hôn và theo Điều 22 BLDS thì một người chỉ bị mất
năng lực hành vi dân sự khi Tòa án tuyên bố. Do đó, trong thực tiễn áp dụng vẫn
còn có ý kiến cho rằng, người chưa bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân
sự mặc dù mắc bệnh tâm thần hay bệnh khác không làm chủ được hành vi thì vẫn được
kết hôn, nhưng khi giải quyết quan hệ nhân thân có liên quan, một số Tòa án lại
tuyên bố là việc kết hôn trái pháp luật.
2.2. Về
việc không thừa nhận hôn nhân giữa những người
cùng giới tính
Luật
HNGĐ không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính nhưng không đồng
thời can thiệp vào việc sống chung giữa họ, pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính cũng đã bãi bỏ việc xử lý vi phạm hành chính đối với những hành vi tổ chức
lễ cưới, việc chung sống giữa những người cùng giới tính. Đây là tiến bộ lớn
trong nhận thức, tôn trọng quyền, lợi ích liên quan đến người đồng tính nói
riêng và cộng đồng người yếu thế nói chung. Tuy nhiên, để thực hiện, bảo vệ tốt
hơn quyền, lợi ích của những cá nhân này, thể chế về các vấn đề liên quan cũng
cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hơn trên nguyên tắc bảo đảm bình đẳng,
chống phân biệt đối xử, có cơ chế pháp lý phù hợp với quan hệ sống chung như vợ
chồng giữa những người cùng giới tính, hạn chế được những nguy cơ, rủi ro pháp
lý phát sinh với họ và những quan hệ xã hội khác liên quan.
2.3. Về quan hệ chung sống như vợ chồng mà không có đăng ký kết
hôn
a) Giải
quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký
kết hôn
Luật HNGĐ không công nhận hôn nhân của nam, nữ
chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, tuy nhiên, để bảo vệ
được các quyền, lợi ích chính đáng của họ, đặc biệt của con, phụ nữ, hạn chế những
vấn đề xã hội liên quan, Luật đã bổ sung cơ chế pháp lý giải quyết cụ thể hậu
quả của việc chung sống theo nguyên tắc
quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của
cha mẹ, tôn trọng sự thỏa thuận, bình đẳng trong giải quyết các vấn đề về tài sản,
sở hữu, giao dịch, trong đó bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con,
của người làm công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống
chung.
Tuy
nhiên, qua thực tiễn áp dụng, có ý kiến đề nghị cần xem xét tiếp tục thừa nhận hôn
nhân thực tế để phù hợp với thực tiễn đời sống hôn nhân và gia đình tại các khu vực
miền núi, dân tộc ít người. Bên cạnh đó, cũng có ý kiến cho rằng không nên thừa
nhận hôn nhân thực tế nhưng ngoài các nguyên tắc được quy định tại
Luật thì cần có hướng dẫn cụ thể hơn về
áp dụng Bộ luật dân sự, pháp luật khác có liên quan trong trường hợp giữa
người chung sống không có thỏa thuận về giải quyết tài sản, giao dịch.
b) Về trường hợp
nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987
Liên quan đến vấn đề này, Luật HNGĐ quy định
"áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình tại thời điểm xác lập để giải
quyết" (khoản 1 Điều 131). Do đó, về nguyên tắc, những trường hợp nam nữ
chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 được thừa nhận hôn nhân
theo quy định của pháp luật tại thời điểm đó và văn bản hướng dẫn pháp luật tại
thời điểm này, ví dụ: Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội
về việc thi hành hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, trong hướng dẫn thi hành Luật,
còn có sự hướng dẫn chưa thống nhất về trường hợp nam, nữ chung sống với nhau
như vợ chồng. Điểm b khoản 4
Điều 2 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn
thi hành một số quy định của Luật HNGĐ quy
định "Người xác lập quan hệ vợ chồng
với người khác trước ngày 03-01-1987 mà chưa đăng ký kết hôn và chưa ly hôn hoặc
không có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố
là đã chết" được xác định là người đang có vợ hoặc có chồng. Tuy
nhiên, khoản 3 Điều 25 Thông tư số 15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 của Bộ Tư
pháp quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày
15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật
hộ tịch quy định "Nếu là trường hợp
chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 và vẫn chung sống với
nhau mà chưa đăng ký kết hôn thì ghi “Hiện tại đang có vợ/chồng là
bà/ông...”.
3. Về quan hệ giữa vợ và chồng
3.1. Về đại diện
Luật đã
quy định cụ thể hơn về các trường hợp đại diện giữa vợ và chồng để
phù hợp với những đặc thù của quan hệ kinh doanh, bao quát hơn các trường hợp vợ
chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên xác lập, thực
hiện, qua đó, bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và gia đình; quyền và lợi ích hợp pháp của người
thứ ba; sự an toàn trong giao dịch. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng cho thấy, việc đại diện giữa vợ và chồng trong quan
hệ kinh doanh, Luật HNGĐ và các văn bản liên quan chưa làm rõ thế nào được hiểu
là vợ chồng kinh doanh chung (phải lấy tài sản chung đem ra kinh doanh hay lấy
tài sản riêng của một người, người kia góp công sức…);
đồng thời, quy định tại khoản 1 Điều 25 Luật HNGĐ chưa có sự thống nhất với Điều
136 BLDS bởi vì BLDS không ghi nhận việc đại diện đương nhiên giữa vợ và chồng
và BLDS cũng không có quy định mở rộng "các trường hợp khác theo quy định
của luật". Do đó, không có cơ sở để áp dụng.
3.2. Về chế độ tài sản của vợ chồng
Luật HNGĐ đã bổ sung quy định vợ chồng có quyền lựa
chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc theo luật định, qua đó, bảo đảm quyền,
nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau và của vợ chồng đối với gia đình; tôn trọng
quyền tự do cá nhân của vợ, chồng; bảo đảm an toàn pháp lý và sự ổn định trong
các giao dịch, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.... Tuy nhiên, một số vấn
đề pháp lý liên quan đến vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện
làm rõ hơn, như :
- Cơ chế công khai về thỏa thuận của vợ chồng
trong xác lập chế độ tài sản theo thỏa thuận.
- Các loại tài sản khác, các quan hệ nghĩa
vụ, hợp đồng được quy định tại các luật điều chỉnh các lĩnh vực cụ thể về đất
đai, chứng khoán, vốn góp tại doanh nghiệp, đối tượng sở hữu trí tuệ… cần được
quy định cụ thể hơn về sở hữu của vợ chồng trong quan hệ liên quan.
- Trong thực tiễn giải quyết các vụ án hôn
nhân và gia đình, liên quan đến chia tài sản chung các khoản thu được từ việc
khai thác tài sản riêng, chung của vợ chồng trong lĩnh vực cụ thể trong một số
trường hợp chưa rõ ràng nên khó khăn trong việc xác định khối tài sản chung để
phân chia; cơ chế lấy ý kiến thỏa thuận trong trường hợp vợ chồng có thời gian
không sống chung với nhau mà mỗi bên có quản lý tài sản chung của vợ chồng; cơ
chế vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới trong thực hiện nghĩa vụ với người
thứ ba nếu giao dịch do một bên vợ hoặc chồng thực hiện, không phải đáp ứng nhu
cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình (ví dụ: nghĩa vụ phát sinh từ các giao dịch
đầu tư, kinh doanh, hụi, họ, cho vay…); cơ chế xác định người thứ ba ngay tình
và bảo vệ người thứ ba ngay tình trong giao dịch liên quan đến tài sản của vợ
chồng; cơ chế xử lý mối liên hệ giữa việc thực hiện quyền đối với tài sản, ví dụ
quyền của bên thế chấp, quyền của bên nhận thế chấp với bảo đảm về nơi ở của vợ
chồng; làm rõ hơn một số thuật ngữ dễ dẫn đến cách hiểu khác nhau như: “tài khoản
ngân hàng”, “tài khoản chứng khoán”, “tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ
yếu của gia đình”, “nguồn sống duy nhất của gia đình”, “không vì nhu cầu của
gia đình”…
3.3. Về ly hôn
Luật HNGĐ đã có những quy định minh bạch,
đầy đủ, cụ thể hơn về quyền yêu cầu giải quyết ly hôn, về cơ chế giải quyết ly
hôn, về quyền, nghĩa vụ của vợ chồng khi ly hôn và của cha mẹ và con khi ly
hôn, cơ chế xử lý tài sản của vợ chồng khi ly hôn liên quan đến người thứ ba,
liên quan đến tài sản đưa vào kinh doanh, qua đó, bên cạnh bảo vệ tốt hơn quyền,
lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, con thì cũng bảo đảm sự ổn định của các quan hệ
xã hội có liên quan. Tuy nhiên, để bảo đảm hơn tính khả thi của quy định này
thì một số vấn đề pháp lý về ly hôn cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện hơn
hoặc có hướng dẫn cụ thể hơn, như:
- Pháp luật về đầu tư, kinh doanh cần cụ
thể hóa quy định của Luật HNGĐ về chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh
doanh, nhất là các vấn đề về góp vốn, quyền của người góp vốn trong công ty,
xác định tư cách cổ đông, quyền hưởng lợi tức cổ đông…
- Cần có hướng dẫn cụ thể hơn về những nội
dung mang tính chất trung tính, có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, như “thật
sự tự nguyện ly hôn”, “vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng”, “người
mẹ không đủ điều kiện”… để tránh việc áp dụng không thống nhất, phụ thuộc vào
đánh giá chủ quan của người có thẩm quyền, như thẩm phán, kiểm sát viên.
- Cần có cơ chế pháp lý để bảo vệ hiệu quả
hơn quyền, lợi ích của các bên liên quan trong thực hiện quyền lưu cư của vợ chồng
khi ly hôn, quyền của con dâu, con rể khi sống chung với gia đình nhà chồng,
nhà vợ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con, quyền của cha, mẹ trực tiếp
nuôi con…
3.4. Về ly thân
Luật HNGĐ chưa quy định về chế định ly
thân nhưng thực tế hiện tượng này vẫn xảy ra. Do đó, một số Bộ, ngành, địa
phương đề nghị nghiên cứu ghi nhận chế định ly thân trong Luật. Việc quy định chế
định ly thân sẽ bảo đảm tốt hơn quyền lợi của các con, các thành viên khác
trong gia đình; minh bạch hóa các giao dịch dân sự, kinh tế do một bên vợ, chồng
thực hiện... Bên cạnh đó, ly thân còn là một biện pháp giúp các bên vợ, chồng
tránh tình trạng bạo lực gia đình, tạo điều kiện cho vợ chồng có thời gian để
cân nhắc kỹ lưỡng trước khi tiến tới quyết định ly hôn...
Trường hợp chưa ghi nhận chế định độc lập về ly thân thì cần nghiên cứu bổ sung
ly thân là một căn cứ cho ly hôn.[30]
Quy định
của Luật
HNGĐ về xác
định cha, mẹ, con đã bảo đảm tính nhân văn hơn, kịp thời có cơ chế pháp lý
khả thi, hiệu quả hơn để tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền làm cha,
làm mẹ của mình, đồng thời hạn chế được những rủi ro pháp lý, xung đột pháp lý
có liên quan về vấn đề này, tuy
nhiên, vẫn còn một số khó khăn khi áp dụng, như:
- Thủ tục về xác định hôn nhân chấm dứt do
sự kiện chết cần được hướng dẫn cụ thể hơn về thẩm quyền, chứng cứ trong việc
xác định con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm người cha
trong giấy kết hôn đã chết được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ
hôn nhân.
- Theo Luật HNGĐ trong trường hợp cha, mẹ
không thừa nhận con chung của vợ chồng thì phải có chứng cứ và Tòa án xác định,
tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án chỉ giải quyết
việc xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ khi có tranh chấp;
trường hợp không có tranh chấp thì không thuộc thẩm quyền của Tòa án. Do vậy,
trong trường hợp có người khác xin nhận là cha của đứa trẻ đó mà vợ chồng đều đồng
ý cho họ nhận con thì trường hợp nhận con này thực hiện tại Ủy ban nhân dân hay
Tòa án đang còn có ý kiến khác nhau. Thực tiễn các Tòa án từ chối giải quyết vì
cho rằng trường hợp này không có tranh chấp.
- Về xác định cha, mẹ trong trường hợp
sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, cần được làm rõ hơn đối với trường hợp
đang tiến hành kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm mà người chồng chết, đứa trẻ
sinh ra đã quá 300 ngày kể từ khi hôn nhân chấm dứt thì đứa trẻ có được xác định
là con chung của vợ, chồng không? Trong trường hợp này là có mong muốn của cả
hai vợ chồng nhưng quá thời gian luật định, hiện pháp luật chưa có quy định cụ
thể. Đối chiếu nguyên tắc quy định tại Điều 88 Luật HNGĐ thì đứa trẻ trong trường
hợp này không là con chung của vợ, chồng nhưng thực tế đứa trẻ đó mang huyết thống
của người cha đã chết và được sinh ra hoàn toàn dựa trên sự mong muốn của người
đã khuất. Do vậy, nếu xác định đứa trẻ sinh ra không phải con chung của cặp vợ
chồng vô sinh thì sẽ ảnh hưởng lớn.
Trường hợp đang trong quá trình thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm mà
người chồng bị tuyên bố mất tích thì người vợ có được tiếp tục thực hiện và nếu
thực hiện thì xác định cha, mẹ, con như thế nào?;
trường hợp việc nhận con của cha, mẹ chưa thành niên hoặc mất năng lực hành vi
dân sự tại cơ quan đăng ký hộ tịch nên khi tiếp nhận yêu cầu giải quyết, cơ
quan đăng ký hộ tịch gặp phải khó khăn do chưa có cơ sở pháp lý.
- Luật HNGĐ chưa khái quát được đầy đủ các
hành vi bị nghiêm cấm của cha, mẹ đối với con, cơ quan có thẩm quyền xử lý. Luật
cũng chưa quy định nếu cha, mẹ, người chăm sóc trẻ vi phạm thì cơ quan nào sẽ
tước quyền tạm thời để xử lý, bảo vệ con trong các trường hợp khẩn cấp.
5. Về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Quy định của Luật HNGĐ về việc mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo là một bước tiến lớn, có tính nhân văn cao trong việc bảo
đảm việc thực hiện quyền làm cha, làm mẹ của công dân, tạo cơ chế pháp lý minh
bạch, rõ ràng hơn trong việc ngăn chặn các hành vi trục lợi của việc mang thai
hộ, tuy nhiên, để mục đích tốt đẹp của việc mang thai hộ đạt hiệu quả cao hơn cần
tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hơn thể chế hoặc hướng dẫn áp dụng đối với việc
thực hiện quyền làm cha, làm mẹ của những cặp vợ chồng đã có con chung nhưng
con bị khuyết tật hoặc bệnh về trí não, vợ chồng không thể sinh con tiếp nhưng
không có quyền được nhờ người khác mang thai hộ, như vậy sẽ rất ảnh hưởng đến
gia đình họ;
nghiên cứu mở rộng đối tượng có thể mang thai hộ miễn sao họ có mục đích nhân đạo,
hỗ trợ vợ chồng trong việc thực hiện quyền làm cha, làm mẹ; cơ chế pháp lý xử
lý nghiêm những hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại; cơ chế giải quyết
tranh chấp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo; cụ thể hóa về đối tượng được hưởng chế độ thai sản trong trường hợp
lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội là người chồng trong cặp vợ chồng vô
sinh nhờ mang thai hộ có được hưởng chế độ thai sản không nếu ngay sau khi sinh
con, người mang thai hộ giao ngay con cho cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ nuôi dưỡng.
Luật HNGĐ đã sửa đổi, bổ sung quy định về quyền, nghĩa vụ giữa các thành viên khác của gia đình để
phù hợp hơn với thực tiễn, bảo đảm tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của thành
viên trong gia đình. Tuy nhiên, quá trình áp dụng chế định này còn vướng mắc trong
việc xác định trường hợp nào cha dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc của chồng
khi cùng chung sống với nhau. có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, trường hợp nào
không có do pháp luật chưa quy định căn cứ chứng minh việc nuôi dưỡng, chăm sóc
lẫn nhau giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế;
thực tế rất khó xác định các trường hợp cha mẹ có hành vi vi phạm nghiêm trọng
nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc phá tán tài sản của
con hoặc có lối sống đồi trụy.
Luật HNGĐ quy định ông bà, cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, chăm sóc,
nuôi dưỡng; con cháu có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo với
ông bà, cha mẹ. Tuy nhiên, trong thực tế không ít trường hợp ông bà, cha mẹ ngược
đãi con cháu và ngược lại nhưng lại không có chế tài đủ mạnh để bảo đảm tính
nghiêm minh của pháp luật trong vấn đề này.
Bên cạnh đó, Luật HNGĐ không quy định quyền và nghĩa vụ của “anh rể, em rể, chị
dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha”
trong khi khoản 16 Điều 3 Luật HNGĐ giải thích khái niệm "thành viên gia
đình" bao gồm các đối tượng này.
7. Về cấp dưỡng
Các
quy định của Luật HNGĐ đã luật hóa nghĩa vụ cơ bản và quan trọng
giữa cha, mẹ và con; giữa anh chị em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và
cháu; giữa vợ và chồng trong những trường hợp nhất định khi một bên cần sự hỗ
trợ từ bên kia. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng còn một số khó khăn như
sau:
- Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
con thuộc diện cần được cấp dưỡng trong trường hợp ly hôn do một bên mất tích
hoặc một bên vắng mặt chưa thực sự thỏa đáng, khi giải quyết ly hôn, Tòa án chỉ
quyết định giao con cho bên có mặt trực tiếp nuôi mà không quyết định bên kia
phải cấp dưỡng. Như vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của con không được đảm bảo.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con cần phải có những biện pháp thích hợp
đối với tình huống này.
Thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều trường hợp,
do có điều kiện kinh tế nên người trực tiếp nuôi con không yêu cầu cấp dưỡng và
Tòa án công nhận. Nhưng quyền nhận cấp dưỡng là quyền của người con khi cha mẹ
ly hôn nên người trực tiếp nuôi dưỡng không có quyền từ chối cấp dưỡng. Việc từ
chối cấp dưỡng sẽ dẫn tới quyền lợi chính đáng của người con không được đảm bảo.
Tuy nhiên, Luật HNGĐ không quy
định về vấn đề này.
- Có nhiều trường hợp người có nghĩa vụ cấp
dưỡng cố tình không thực hiện nghĩa vụ hoặc tìm cách tẩu tán tài sản để trốn
tránh trách nhiệm, không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì pháp luật vẫn chưa có
biện pháp cưỡng chế thỏa đáng và hiệu quả.
- Áp dụng Điều 115 Luật HNGĐ còn vướng mắc
trong việc xác định như thế nào là "khó khăn, túng thiếu", từ đó khó
thực hiện do các vấn đề về chứng minh và không khả thi nếu người có nghĩa vụ cấp
dưỡng không thiện chí. Quy định này cũng khó thực hiện vì thiếu chế tài ràng buộc.
- Thực tiễn áp dụng quy định về mức cấp dưỡng
tại Điều 116 Luật HGNĐ cho thấy các Tòa án còn tùy nghi, chưa thống nhất, nhiều
trường hợp chưa bảo đảm quyền lợi của con sau khi ly hôn.
- Thẩm quyền giải quyết các vụ việc hôn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài:
+ Khoản 1 và khoản 2 Điều 123 Luật HNGĐ dẫn
chiếu đến quy định trong các đạo luật khác là pháp luật về hộ tịch và Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015 mà không có quy định loại trừ. Tuy nhiên, khoản 3 Điều
này, Điều 128, khoản 2 Điều 129 Luật HNGĐ lại có quy định riêng biệt về thẩm
quyền của tòa án nhân dân cấp huyện, thẩm quyền áp dụng cho một số quan hệ hôn
nhân và gia đình cụ thể.
+ Quy định tại khoản 3 Điều 123 Luật HNGĐ
trùng với quy định tại khoản 4 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Do vậy,
không cần thiết phải quy định thẩm quyền trong Luật HNGĐ.
- Thẩm quyền xác định cha, mẹ, con có yếu
tố nước ngoài:
+ Về thẩm quyền của cơ quan hộ tịch, Điều
128 Luật HNGĐ mặc dù chỉ dẫn đế pháp luật về hộ tịch nhưng còn thiếu trường hợp
công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài đã được quy định tại Điều
43 Luật Hộ tịch năm 2014.
+ Về thẩm quyền của Tòa án, các Điều 28,
29, 469 và 470 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định về thẩm quyền của tòa
án Việt Nam với các vụ việc dân sự nói chung và các vụ việc dân sự có yếu tố nước
ngoài nói riêng, nhưng Điều 469 và Điều 470 không có quy định cụ thể về thẩm
quyền quốc tế (thẩm quyền của tòa án Việt Nam so với tòa án nước ngoài) đối với
vụ việc về quan hệ pháp lý giữa cha mẹ con. Việc Luật HNGĐ có quy định riêng nhưng
không đầy đủ về thẩm quyền của tòa án có thể dẫn đến những cách giải thích khác
nhau.
- Về thẩm quyền giải quyết nghĩa vụ cấp dưỡng
có yếu tố nước ngoài:
Khoản 1 và khoản 2 Điều 129 Luật HNGĐ v mâu
thuẫn nhau. Khoản 2 xác định thẩm quyền thuộc về cơ quan của nước nơi người yêu
cầu cấp dưỡng cư trú, như vậy nếu người yêu cầu không cư trú ở Việt Nam thì cơ
quan của Việt Nam không có thẩm quyền giải quyết vụ việc và không có điều kiện
để áp dụng khoản 1 trong đó cho phép giải quyết các yêu cầu cấp dưỡng của người
không cư trú tại Việt Nam (áp dụng pháp luật mà họ là công dân).
Trong các Hiệp định tương trợ tư pháp về
dân sự mà Việt Nam đã ký kết với các nước đều xác định cơ quan có thẩm quyền là
cơ quan nơi người yêu cầu cấp dưỡng thường trú hoặc cư trú nhưng pháp luật áp dụng
thì có Hiệp định quy định là pháp luật nơi người yêu cầu thường trú, có Hiệp định
lại quy định là pháp luật nơi người yêu cầu là công dân.
8.2. Về pháp luật
áp dụng đối với các vụ việc về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
- Về nguyên tắc áp dụng pháp luật nước
ngoài:
Luật HNGĐ không quy định rõ về hệ thuộc luật
áp dụng trong một số quan hệ cụ thể: quan hệ nhân thân và tài sản của vợ chồng,
quan hệ giữa các thành viên trong gia đình đặc biệt là quan hệ cha mẹ con...
Trong những trường hợp này, nguyên tắc chung của Luật HNGĐ là áp dụng pháp luật
Việt Nam (không theo nguyên tắc áp dụng pháp luật của nước nơi có mối liên hệ gắn
bó nhất với quan hệ đó như quy định của Bộ luật dân sự năm 2015). Điều 122 Luật
HNGĐ cũng quy định một số vấn đề về áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán quốc
tế, dẫn chiếu... là những vấn đề có tính nguyên tắc đã được quy định trong Bộ
luật dân sự.
- Về định nghĩa quan hệ hôn nhân và gia
đình có yếu tố nước ngoài:
Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, yếu tố
cư trú (hoặc thường trú) tại nước ngoài có thể ảnh hưởng đến thẩm quyền giải
quyết và pháp luật áp dụng đối với các quan hệ hôn nhân và gia đình, đặc biệt
là trong bối cảnh một số quốc gia (tương tự như Việt Nam) cho phép những người
nước ngoài kết hôn với nhau trước cơ quan có thẩm quyền của họ. Trong khi đó, đối
tượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài theo Luật quốc tịch Việt Nam bao gồm
cả người có quốc tịch Việt Nam và quốc tịch nước ngoài nên không rõ ràng về tư
cách chủ thể. Vì vậy, người Việt Nam định cư ở nước ngoài không còn là một nhóm
chủ thể riêng biệt trong định nghĩa về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo
BLDS. Trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài mang quốc tịch nước ngoài,
quan hệ có sự tham gia của chủ thể này là quan hệ có yếu tố nước ngoài. Trường
hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhưng mang quốc tịch Việt Nam và mọi yếu
tố trong quan hệ dân sự đều liên quan đến Việt Nam thì quan hệ này phải được
coi như quan hệ trong nước.
- Về pháp luật áp dụng đối với kết hôn có yếu
tố nước ngoài:
+ Điều 126 nên sử dụng chung thuật ngữ
"pháp luật của nước mà bên kết hôn có quốc tịch" tương tự như cách sử
dụng trong BLDS.
+ Khoản 2 Điều 126 Luật HNGĐ không áp dụng
nguyên tắc chung tại khoản 1 mà chỉ buộc các bên tuân theo quy định của pháp luật
Việt Nam. Quy định này có thể khiến cho hôn nhân của những người nước ngoài này
không được công nhận tại quốc gia mà họ là công dân, tạo kẽ hở để người nước
ngoài lẩn tránh các quy định pháp luật về kết hôn ở quốc gia mà họ là công dân.
+ Đối với các văn bản quy định chi tiết, mặc
dù có quy định về việc áp dụng pháp luật của nước mà mỗi bên kết hôn có quốc tịch,
các quy định về thủ tục kết hôn có yếu tố nước ngoài (Điều 38 Luật hộ tịch, Điều
30 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch) chỉ đòi hỏi bên nước ngoài nộp
giấy chứng minh tình trạng hôn nhân hoặc giấy tờ xác nhận đủ điều kiện kết hôn
theo pháp luật nước ngoài (trong trường hợp không có giấy chứng minh tình trạng
hôn nhân) mà không xem xét nội dung quy định của pháp luật nước ngoài về các điều
kiện kết hôn.
Một số quốc gia việc kết hôn trong một số
trường hợp phải kèm theo các điều kiện khác thì giấy tờ chứng minh sự phù hợp với
các điều kiện này chưa có trong thành phần hồ sơ (ví dụ tại Hàn Quốc, theo Điều
801 Bộ luật dân sự của nước này, những người ở độ tuổi vị thành niên 18 đến 20
tuổi có thể kết hôn khi có sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ, khi đạt tuổi
thành niên là tròn 20 tuổi họ có thể kết hôn mà không cần sự đồng ý này. Như vậy,
nếu một người nam quốc tịch Việt Nam đủ tuổi kết hôn lấy người nữ Hàn Quốc ở độ
tuổi 19 - phù hợp với tuổi kết hôn ở Việt Nam thì trừ khi cơ quan có thẩm quyền
của Hàn Quốc cấp giấy xác nhận cô dâu đáp ứng toàn bộ các điều kiện để kết hôn,
cô dâu Hàn Quốc phải có giấy tờ chứng mình tình trạng hôn nhân tại Hàn Quốc và
giấy tờ chứng mình sự đồng ý của cha mẹ.
+ Các quy định hiện hành (Điều 38 Luật hộ
tịch, Điều 30, Điều 31, Điều 32 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch)
không yêu cầu việc nộp hồ sơ phải có mặt cả bên nam nữ. Tuy nhiên, Điều 3 Luật
hộ tịch quy định người yêu cầu đăng ký kết hôn trực tiếp nộp hồ sơ tại cơ quan
hộ tịch. Như vậy, cần quy định rõ một trong hai bên có thể nộp hồ sơ đăng ký kết
hôn hay không.
Trường hợp kết hôn với người nước ngoài,
bên kết hôn nước ngoài đang cứ trú ở nước ngoài thường gặp trở ngại trong việc
sắp xếp tới Việt Nam 2 lần vào cả thời điểm nộp hồ sơ và thời điểm đăng ký kết
hôn. Sự có mặt của bên nước ngoài trong giai đoạn này không có nhiều ý nghĩa
khi pháp luật không bắt buộc phỏng vấn các bên kết hôn như trước đây (chưa có
quy định về các trường hợp cần phỏng vấn).
- Về pháp luật áp dụng đối với ly hôn có yếu
tố nước ngoài:
Điều kiện "thường trú" tại khoản
1 Điều 127 Luật HNGĐ chưa rõ sẽ áp dụng đối với hôn nhân giữa người nước ngoài
với nhau hay giữa cả công dân Việt Nam và người nước ngoài. Trong trường hợp
này pháp luật Việt Nam được áp dụng với tư cách là pháp luật nơi có tòa án
(và/hoặc nơi thường trú áp dụng cho cả hai trường hợp thì sẽ thiếu quy định áp
dụng cho trường hợp kết hôn giữa công dân Việt Nam thường trú ở Việt nam còn
công dân nước ngoài thường trú tại nước ngoài. Khoản 2 lại đưa ra trường hợp
ngoại lệ trong việc áp dụng pháp luật Việt Nam quy định khoản 1, cho phép áp dụng
pháp luật nơi thường trú chung khi công dân Việt Nam không thường trú tại Việt
Nam.
Thông thường trong các vụ việc về ly hôn sẽ
giải quyết toàn bộ các quan hệ về nhân thân và tài sản của vợ chồng, đồng thời
giải quyết yêu cầu về quyền nuôi con, cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, đây là các
quan hệ pháp lý có liên quan nhưng độc lập với nhau vì các bên có thể yêu cầu
giải quyết riêng rẽ.
Về mặt chính sách, cần làm rõ pháp luật để
giải quyết quan hệ tài sản của vợ chồng khi ly hôn và các quan hệ khác có cùng
tuân theo hệ thuộc luật như quyết quan hệ nhân thân hay không. Khoản 3 Điều 127
Luật HNGĐ đang giải quyết các yêu cầu về tài sản trong ly hôn nhưng chỉ áp dụng
với bất động sản tại nước ngoài. Chế độ tài sản của vợ chồng là vấn đề cần giải
quyết trong nhiều trường hợp không chỉ ly hôn mà cả khi một bên chết hoặc phá sản.
- Về pháp luật áp dụng đối với việc xác định
quan hệ cha mẹ con có yếu tố nước ngoài:
+ Các vụ việc được giải quyết tại cơ quan
hộ tịch:
Điều 44 Luật hộ tịch quy định cụ thể về thủ
tục đăng ký nhận cha, mẹ, con, theo đó người yêu cầu đăng ký nhận cha, mẹ, con
nộp tờ khai theo mẫu quy định và giấy tờ, đồ vật hoặc các chứng cứ khác để chứng
minh quan hệ cha con hoặc mẹ con cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Như vậy trong trường
hợp không có tranh chấp thì việc xác định quan hệ cha mẹ con có yếu tố nước
ngoài được giải quyết tại Ủy ban nhân dân cấp huyện theo các quy định về trình
tự, thủ tục của pháp luật Việt Nam mà không có quy định về pháp luật áp dụng.
Pháp luật hiện hành không có quy định về loại giấy tờ nào được coi là đủ để chứng
minh quan hệ cha mẹ con: Giấy chứng sinh, kết quả xét nghiệm AND hay giấy tờ
cam đoan của nhân chứng.
+ Các vụ việc được giải quyết tại Tòa án:
Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015,
do Luật HNGĐ không xác định pháp luật áp dụng trong trường hợp này nên pháp luật
áp dụng là pháp luật của nước nơi có mối liên hệ gắn bó nhất với quan hệ pháp
luật đang được giải quyết. Việc xác định pháp luật này phải căn cứ vào từng trường
hợp cụ thể. Đến nay, chưa có thông tin về các bản án, quyết định của tòa án Việt
Nam có nội dung đánh giá về mối liên hệ gắn bó nhất này.
- Về pháp luật áp dụng đối với chế độ tài
sản của vợ chồng, giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng:
Điều 130 Luật HNGĐ không dẫn chiếu đến
pháp luật nước ngoài và hiện nay chưa có quy định dẫn chiếu đến việc áp dụng
pháp luật nước ngoài đối với các quan hệ nêu tại Điều này trong các đạo luật
khác. Vì vậy quy định của Điều 130 Luật HNGĐ có thể hiểu là dẫn chiếu đến các
quy định của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, trong trường hợp vợ chồng áp dụng
chế độ tài sản theo thỏa thuận thì pháp luật chưa quy định họ có được thỏa thuận
về pháp luật áp dụng hay không. Đến nay cũng chưa có quy định giải quyết các
trường hợp chung sống với nhau như vợ chồng có yếu tố nước ngoài.
8.3. Về các
vấn đề khác
- Tại một số nước, khi công dân
Việt Nam kết hôn với người nước ngoài tại nước ngoài bị yêu cầu thôi quốc tịch
Việt Nam. Tuy nhiên, trong trường hợp bị tước bỏ quốc tịch nước ngoài, công dân
Việt Nam trở thành người không quốc tịch, thủ tục để được chấp nhận trở lại quốc
tịch Việt Nam rất khó khăn.
- Thực tế cho thấy cần quy định
chặt chẽ các điều kiện kết hôn với người nước ngoài, bổ sung một số điều kiện cần
thiết như điều kiện về trình độ ngôn ngữ, sức khỏe, chênh lệch về tuổi, đã trải
qua lớp đào tạo về văn hóa hôn nhân, gia đình của nước ngoài…[47]
- Hệ thống pháp luật Việt Nam
chưa có những quy định xác lập thông tin về tình hình sinh sống của công dân Việt
Nam kết hôn với người nước ngoài và đang sinh sống ở nước ngoài (chẳng hạn pháp
luật chưa có quy định việc bảo hộ cho công dân Việt Nam là phụ nữ Việt Nam sau
khi kết hôn sang định cư ở Trung Quốc (Đài Loan), Hàn Quốc… nên việc giúp đỡ
các cô dâu Việt Nam khi gặp hoàn cảnh khó khăn còn nhiều hạn chế do nhiều
nguyên nhân: trình độ thấp, không có thông tin về các cơ quan ngoại giao).
- Pháp luật chưa có biện pháp hữu
hiệu để ngăn chặn tình trạng kết hôn giả tạo nhằm mục đích khác. Luật Hộ tịch năm 2014 đã bỏ thủ
tục phỏng vấn đối với bên nam và bên nữ khi đăng ký kết hôn tại UBND cấp huyện.
Tuy nhiên, nhiều trường hợp đăng ký kết hôn với mục đích để được nhập cư ở nước
ngoài đã lợi dụng việc đăng ký kết hôn này. Trong quá trình giải quyết, công chức
làm công tác hộ tịch nếu không kiểm tra kỹ hồ sơ cũng như thực hiện việc thẩm
tra, xác minh tại địa phương thì không thể phát hiện ra được. Nhưng nếu như thực
hiện thẩm tra, xác minh thì sẽ không đảm bảo về thời gian giải quyết, làm ảnh
hưởng đến việc giải quyết thủ tục hành chính.
- Luật HNGĐ quy định tuổi kết
hôn của nữ là từ đủ 18 tuổi, nam là từ đủ 20 tuổi. Trong khi đó, một số nước và
vùng lãnh thổ quy định tuổi kết hôn thấp hơn so với Việt Nam (như Anh, Mỹ, Úc,
Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc là trên 16 tuổi; Pháp là từ 15 tuổi). Do đó, cơ
quan có thẩm quyền sẽ gặp khó khăn khi thụ lý các hồ sơ xin công nhận việc đăng
ký kết hôn đã đăng ký ở cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài (ghi chú kết hôn)
vì ngoài việc xem xét hôn nhân có phù hợp với pháp luật Việt Nam hay không còn
phải tính đến quyền lợi của phụ nữ và trẻ em. Do đó, quy định của Luật chưa phù
hợp với thực tiễn cuộc sống.
- Trong thực tiễn xét xử Tòa án
cũng đã gặp nhiều vướng mắc khi giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình
có yếu tố nước ngoài. Ví dụ, trường hợp người Việt Nam đi lao động xuất khẩu ở
nước ngoài, hết thời hạn hợp đồng lao động không về nước mà trốn ở lại sống lưu
vong ở nước đó, người vợ (chồng) ở Việt Nam muốn ly hôn với họ, nhưng không biết
họ đang ở đâu, không có liên lạc với gia đình. Hoặc trường hợp người Việt Nam kết
hôn với người nước ngoài, sau một thời gian sinh sống với vợ (chồng) ở nước
ngoài trở về Việt Nam và có yêu cầu ly hôn với chồng (vợ) của mình đang ở nước
ngoài. Mặc dù các trường hợp trên Tòa án đã thực hiện mọi biện pháp cần thiết
như ủy thác tư pháp ra nước ngoài nhưng vẫn không có kết quả, dẫn đến vụ việc
không được giải quyết, ảnh hưởng rất lớn tới quyền lợi của đương sự.
- Chưa thành lập được Trung tâm hỗ trợ kết
hôn để giới thiệu giúp công dân Việt Nam và người nước ngoài tìm hiểu các vấn đề
về hoàn cảnh cá nhân, gia đình và xã hội của các bên, phong tục, tập quán và
các vấn đề khác có liên quan mà các bên yêu cầu; tạo điều kiện thuận lợi để họ
tiến tới hôn nhân tự nguyện, bình đẳng, tiến bộ, một vợ một chồng. Việc chưa có
quy định cụ thể các căn cứ cho việc từ chối đăng ký kết hôn liên quan thuần
phong mỹ tục và đạo đức tốt đẹp của người Việt Nam (chênh lệch tuổi quá xa, thời
gian quen biết quá ngắn, hạn chế năng lực hành vi dân sự, không giao tiếp được
ngôn ngữ chung…) gây khó khăn cho việc giải quyết hồ sơ đăng ký kết hôn.
- UBND cấp xã vướng mắc trong việc giải
quyết yêu cầu cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho các trường hợp công dân
Việt Nam đã từng có thời gian cư trú tại nước ngoài nay về Việt Nam thường trú
mà có yêu cầu cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân thì hầu hết các trường hợp
này không có giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân thời gian cư trú ở nước
ngoài (giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ
quan đại diện lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài hoặc giấy tờ chứng minh tình trạng
hôn nhân do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp). Trường hợp này, Cục Lãnh
sự - Bộ Ngoại giao không thể hỗ trợ xác minh/xác nhận tình trạng hôn nhân,
nhưng do công dân đã về nước thường trú nên không thể xuất cảnh ra nước ngoài để
đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp giấy xác nhận, do đó không thể chứng minh
tình trạng hôn nhân trong thời gian cư trú ở nước ngoài.
C. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC; TỒN TẠI, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN; BÀI HỌC KINH NGHIỆM
I. Đánh giá chung về kết quả đạt được
Dưới sự giám sát thi hành pháp luật của các
cơ quan của Quốc hội, sự tổ chức thi hành nghiêm túc, chủ động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, các bộ, ngành, địa phương, các tổ
chức chính trị - xã hội có liên quan, công tác triển khai thi hành Luật HNGĐ đã
được tiến hành nghiêm túc, bài bản,
toàn diện và thu được những kết quả tích cực:
1. Công tác
phổ biến, tuyên truyền về nội dung và ý nghĩa của Luật HNGĐ cho các cơ quan, tổ chức và các
tầng lớp nhân dân được chú trọng thực hiện toàn diện,
đồng bộ trong phạm vi cả nước, từ trung ương đến cơ sở, với nhiều
hình thức phong phú, dễ hiểu, gần gũi với người dân, thu được
nhiều kết quả thiết thực. Nhiều biện pháp, giải pháp nhằm tổ chức
thi hành Luật HNGĐ hiệu quả đã được các cơ quan, tổ chức thực hiện với tinh thần
chủ động, sáng tạo. Quá
trình triển khai thi hành Luật cũng đã phát hiện được một số sáng kiến, mô hình
hay, cần được nhân rộng.
2. Công tác xây dựng thể chế để triển khai thi hành Luật
HNGĐ đã bước đầu bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất với pháp luật khác có liên quan
đã nhận được sự quan tâm của các cấp có thẩm quyền. Về cơ bản, những chính sách
lớn của Luật HNGĐ về các quyền nhân thân, tài sản trong quan hệ hôn nhân và gia
đình đã được thể chế hóa tương đối đầy đủ bằng những văn bản quy định, hướng dẫn chi tiết hoặc trong các văn bản
pháp luật khác có liên quan, tạo sự thống nhất và đồng bộ hơn của hệ thống pháp luật về hôn nhân
gia đình. Bên cạnh Luật HNGĐ, quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của các
chủ thể trong hôn nhân và gia đình cũng đã được thực hiện, bảo vệ tương đối đầy
đủ trong BLDS, Luật đất đai, Luật nhà ở, pháp luật về tố tụng, hòa giải ở cơ sở…
3. Việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định của Luật
HNGĐ trong công nhận, thực hiện, bảo vệ quyền về hôn nhân và gia đình của người dân đã hiệu
quả hơn, đồng bộ, thống nhất với pháp luật về hộ tịch, tố tụng và pháp luật
khác có liên quan.
Có thể nói, những kết
quả đạt được trong hơn 03 năm
thi hành Luật HNGĐ đã từng bước đưa các quy định của Luật này dần đi vào cuộc sống, tác động tích cực tới đời sống hôn nhân, gia đình của
người dân; ổn định nền tảng quan hệ xã hội, các quan hệ khác có liên quan; củng
cố, hoàn thiện hơn chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam; góp phần đáng kể vào
việc bảo vệ, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013.
II.
Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
1. Tồn
tại, hạn chế
- Việc tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giới
thiệu về nội dung của Luật
HNGĐ ở một số khu vực, lĩnh vực còn chưa mang tính chất thường xuyên, còn lặp lại
hoặc mang tính hình thức, nguồn tài liệu phổ biến
còn chưa sát
với nhận thức của người dân. Công tác thể chế, hướng dẫn thi hành Luật đã đạt nhiều
thành tựu nhưng việc phổ biến, tuyên truyền những văn bản hướng dẫn thi hành
còn ít thực hiện.
- Công tác rà soát văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hôn nhân và gia
đình còn chưa bài bản, hiệu quả nên một số vấn đề bất cập về sự đồng bộ, thống
nhất trong quy định của Luật HNGĐ với quy định của pháp luật khác có liên quan
và trong áp dụng pháp luật còn chậm được phát hiện và khắc phục.
- Trong công tác xây dựng thể chế để cụ thể hóa một số nội dung của
Luật HNGĐ vẫn còn thiếu tính khả thi, như trong áp dụng tập quán, trong hoàn
thiện cơ chế đồng bộ, thống nhất, minh bạch trong đăng ký tài sản chung, tài sản
riêng của vợ chồng và giao dịch liên quan.
-
Liên quan đến
thẩm quyền, trong một số nội dung vẫn chưa phân tách rõ thẩm quyền của cơ quan
quản lý hành chính nhà nước với Tòa án, ví dụ thẩm quyền về công nhận nam, nữ
chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn có quan hệ hôn nhân hoặc thẩm
quyền xác định cha mẹ cho con trong trường hợp không có tranh chấp nhưng lại
liên quan đến thực hiện, bảo vệ quyền, lợi ích của con chưa thành niên hoặc trục
lợi trong việc nhận cha mẹ con… Hội Phụ nữ vẫn chưa kịp thời thực hiện vai trò của mình
trong việc yêu cầu Tòa án thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ
em; chưa có cơ chế thẩm quyền trong trường hợp phụ nữ, trẻ em, người yếu thế bị
xâm phạm quyền hôn nhân và gia đình nhưng không thể tự mình yêu cầu và không có
cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan yêu cầu.
2. Nguyên nhân
- Về mặt khách quan:
+ Luật HNGĐ có nhiều nội dung mới, đột phá so với Luật HNGĐ
năm 2000 cả về nhận thức, cách tiếp cận, cơ chế pháp lý cho nên tạo ra những
khó khăn nhất định cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cả về nhận thức, cách tiếp
cận, cơ chế pháp lý trong cụ thể hóa các chính sách lớn của Luật.
+
Một số quy định của
Luật HNGĐ có tính tiến bộ, phù hợp với điều kiện phát triển mới về kinh tế - xã
hội nhưng do còn chịu ảnh hưởng nhiều bởi yếu tố tập quán, văn hóa truyền thống
nên còn có nhận thức khác nhau cả trong triển khai thi hành và trong áp dụng,
ví dụ về áp dụng tập quán, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, chế độ tài sản
theo thỏa thuận, về thanh toán tài sản dựa trên cơ sở lỗi khi ly hôn...
+ Quy định của Luật HNGĐ có tác động tới từng, tất cả
người dân trong xã hội, do đó nhu cầu, phạm vi tuyên truyền, phổ biến là rất rộng
lớn nhưng nguồn
lực, kinh phí còn thiếu, chưa đáp ứng được so với yêu cầu khách quan.
+ Nhà nước còn thiếu cơ chế pháp lý cụ thể để các tổ chức
chính trị, xã hội như Hội liên hiệp phụ nữ có đủ năng lực để tham gia bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cho phụ nữ, trẻ em và những người yếu thế khác trong
quan hệ hôn nhân và gia đình.
+ Hệ thống pháp luật liên quan đến hôn nhân và gia đình rất
đa dạng, phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, bên cạnh còn tồn tại
nhiều văn bản pháp luật được ban hành trước Luật HNGĐ thì việc thay đổi pháp luật
sau khi Luật HNGĐ được ban hành cũng được diễn ra thường xuyên dẫn tới làm phát
sinh nhiều vấn đề về sự đồng bộ, thống nhất giữa Luật HNGĐ và pháp luật khác có
liên quan.
- Về mặt chủ quan:
+ Nhận thức của một số cơ
quan, tổ chức, cá nhân
trong
công tác triển khai thi hành Luật HNGĐ còn chưa thật sự đầy đủ, sâu sắc. Việc
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục Luật mới chỉ tập trung trong lĩnh vực văn hóa,
xã hội, còn trong lĩnh vực kinh tế lại ít được thực hiện.
+ Sự phối hợp giữa một số cơ quan trong quá trình thực hiện
các hoạt động triển khai thi hành Luật HNGĐ chưa chặt chẽ dẫn đến các biện pháp
thực hiện còn thiếu đồng bộ, hiệu quả chưa cao.
III. Bài
học kinh nghiệm
Qua
03 năm triển khai thi hành Luật HNGĐ, có thể rút ra một số
bài học kinh nghiệm cơ bản sau:
Một là, sự nhận thức đúng đắn
và lãnh đạo sát sao của các cấp ủy Đảng, chính quyền
về việc đưa Luật HNGĐ vào cuộc sống giữ yếu tố quan trọng hàng
đầu trong kết quả đạt được về thi hành Luật này.
Hai là, công
tác triển khai thi hành pháp luật nói chung, Luật HNGĐ
nói riêng phải là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, kiên trì, đồng thời phải có tính chủ động, sáng tạo, tích cực và trách nhiệm của
các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Bên cạnh đó, việc bảo đảm nguồn lực
cho công tác này từ phía nhà nước cũng rất quan trọng.
Ba là,
việc nắm bắt kịp thời, đúng
và có ưu tiên những vấn đề phát sinh trong thực tiễn đời sống hôn nhân và gia
đình và tác động kinh tế - xã hội có ý nghĩa quan trọng trong phát hiện và hình
thành cơ chế khắc phục sự thiếu đồng bộ, thống nhất hoặc cơ chế khắc phục những
vấn đề mới phát sinh mà chưa có quy định của pháp luật.
Bốn là, vai trò của Tòa án nhân dân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ
trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình, thực hiện, bảo vệ kịp thời
quyền, lợi ích hợp pháp về hôn nhân và gia đình của người dân mà còn là cơ quan
khắc phục sự khuyết thiếu của pháp luật, sự thiếu đồng bộ, thống nhất của hệ thống
pháp luật một cách linh hoạt, kịp thời nhất là trong giải quyết các vụ việc cụ
thể không có quy định pháp luật, pháp luật quy định không rõ ràng hoặc cần áp dụng
tập quán.
Năm là, cần chú trọng công tác
giám sát và theo dõi thi hành pháp luật hôn nhân
và gia đình để từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị thúc đẩy việc
thi hành Luật.
Sáu là, sự phối hợp chặt chẽ các cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền đóng vai trò quan trọng để tháo gỡ được nhiều bất
cập, khắc phục được những mâu thuẫn trong quy định
pháp luật và áp dụng pháp luật. Bên cạnh đó, do Luật HNGĐ gắn liền với đời sống cộng đồng, xã
hội nên vai trò của các tổ chức, cá nhân có ảnh hưởng trong cộng đồng xã hội đối
với việc thi hành Luật có vị trí quan trọng trong việc đồng thuận của người dân
đối với việc tuân thủ những quy định của Luật HNGĐ.
D. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
1. Các Bộ,
ngành, địa phương và tổ chức có liên quan tiếp tục tăng cường công
tác hoàn thiện thể chế nhằm cụ thể hóa đầy đủ quy định, nội dung của Luật
HNGĐ;
tăng cường công tác tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức về pháp luật hôn nhân và gia
đình của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền và các tầng lớp nhân dân.
2. Các cơ quan
đề nghị xây dựng luật, Chính phủ, Quốc hội cần tiếp tục xem xét, lồng
ghép các chính sách, quy định bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất giữa Luật HNGĐ với
các văn bản pháp luật điều chỉnh những lĩnh vực kinh tế, xã hội cụ thể, góp phần
bảo đảm tính khả thi trong quy định của Luật HNGĐ trong đời sống kinh tế, xã hội.
3. Các cấp có thẩm quyền rà soát, nghiên cứu những vấn đề
còn bất cập, vướng mắc được nêu trong Báo cáo này và những bất cập, vướng mắc
khác để kịp thời sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật có liên quan hoặc ban
hành mới văn bản quy phạm pháp luật.
4. Cần thay đổi tư duy máy móc là những vướng mắc trong
quy định của Luật HNGĐ thì phải giải quyết bằng việc sửa đổi Luật này. Việc áp
dụng pháp luật có liên quan (như BLDS, Luật trẻ em...) hoặc lồng ghép sửa đổi,
bổ sung quy định trong các văn bản pháp luật liên quan điều chỉnh các quan hệ
hôn nhân và gia đình trong lĩnh vực cụ thể cần được chú trọng để không chỉ góp
phần khắc phục sự khuyết thiếu của Luật HNGĐ mà còn phù hợp với đặc thù của từng
quan hệ pháp luật chuyên ngành và vừa bảo đảm được tính linh hoạt, thích nghi với
sự thay đổi, phát triển của kinh tế, xã hội. Bên cạnh đó, những bất cập, vướng
mắc về sự đồng bộ, thống nhất của pháp luật cần được giải quyết thông qua phát
huy vai trò của Tòa án nhân dân. Căn cứ vào quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức
tòa án nhân dân và pháp luật tố tụng, Tòa án nhân dân tối cao cần kịp thời ban
hành văn bản hướng dẫn áp dụng hoặc công bố án lệ để áp dụng thống nhất trong
xét xử của ngành Tòa án đối với những vấn đề pháp lý được nêu tại Báo cáo này
hoặc những vấn đề pháp lý khác phát sinh trong thực tiễn.
5. Các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan (tín dụng,
chứng khoán, bảo hiểm, đất đai, bất động sản, sở hữu trí tuệ, đầu tư kinh
doanh...) trong phạm vi chức năng, thẩm quyền cần kịp thời có những hướng dẫn để
cụ thể hóa quy định của Luật HGNĐ và các văn bản hướng dẫn Luật này trong tổ chức,
hoạt động và trong công tác thể chế của lĩnh vực, ngành mình.
Trên đây là báo cáo của Bộ Tư pháp về
sơ kết 03
năm triển khai thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
(Xin gửi kèm theo các Phụ lục: (1) Luật HNGĐ năm 2014 và một số văn bản
pháp luật hướng dẫn thi hành; (2) Thống kê số vụ bạo lực gia đình; (3) Kết quả
thực hiện công tác đăng ký hộ tịch; (4) Số vụ án hôn nhân và gia đình được thụ
lý, giải quyết tại Tòa án; (5) Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc
giải quyết các vụ án hình sự về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình và
kiểm sát việc giải quyết các vụ án, việc dân sự về hôn nhân và gia đình của
ngành kiểm sát nhân dân; (6) Sự đồng bộ, thống nhất giữa quy định của Luật HNGĐ
với quy định của pháp luật có liên quan, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên và chuẩn bị ký kết, gia nhập)./.
Nơi nhận:
- Thủ tướng Chính phủ (để
b/c);
- Các Phó Thủ tướng
Chính phủ (để b/c);
- Các Thành viên Chính
phủ;
- UBTP, UBPL, UBCVĐXH của
Quốc hội;
- Văn phòng TW Đảng;
- Văn phòng Tổng bí thư;
- Văn phòng Quốc hội;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Văn phòng Chính phủ;
- Tòa án nhân dân tối
cao;
- Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao;
- Bộ trưởng (để báo
cáo);
- Lưu: VT, Vụ PLDSKT.
|
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Phan Chí Hiếu
|
Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật HNGĐ; Nghị định số
10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015 quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong
ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; Nghị định số
98/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày
28/01/2015 của Chính phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ
tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo;
Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 quy định chi tiết một số điều và biện
pháp thi hành Luật hộ tịch…
Thông tư số 02a/2015/TT-BTP ngày 23/02/2015 hướng dẫn
thi hành một số điều của Nghị định số 126/2014/NĐ-CP; Thông tư số
15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015; Thông tư số
57/2015/TT-BYT ngày 30/12/2015 quy định chi tiết một số điều của Nghị định số
10/2015/NĐ-CP; Thông tư số 32/2016/TT-BYT ngày 15/9/2016 quy định việc chi trả
các chi phí thực tế để bảo đảm việc chăm sóc sức khỏe sinh sản của bên nhờ mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo; Thông tư số 34/2016/TT-BYT ngày 21/9/2016 quy định
về thăm khám, các quy trình sàng lọc để phát hiện, điều trị, xử trí các bất thường,
dị tật của bào thai…
Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP
ngày 06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật HNGĐ; Nghị quyết số
04/2016/NQ-HĐTP ngày 30/12/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13, Luật Tố tụng hành chính số 93/2015/QH13 về gửi,
nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng
bằng phương tiện điện tử; Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 ban
hành một số biểu mẫu trong tố tụng dân sự; Nghị quyết số 04/2018/NQ-HĐTP ngày
09/8/2018 ban hành một số biểu mẫu trong giải quyết việc dân sự…
Một số địa phương dự kiến trình Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Danh mục
trong quý IV năm 2019 (Ninh Thuận), quý II năm 2020 (Thái Nguyên); một số địa
phương đã tổng hợp được số lượng tập quán trên địa bàn tỉnh nhưng thấy chưa đủ
cơ sở để trình Hội đồng nhân dân tỉnh (Gia Lai, Quảng Nam, Lai Châu); một số địa
phương vẫn đang trong quá trình thống kê, khảo sát để lập Danh mục (Đắk Lắk); một
số địa phương chưa triển khai thực hiện nhiệm vụ này (Điện Biên, Đồng Nai, Cao
Bằng).
Theo Báo cáo của 61/63 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung
ương, số xã phường có mô hình phòng, chống bạo lực gia đình là 9.024 (chiếm khoảng
74,85%), trong đó, số xã/phường/thị trấn triển khai mô hình theo hướng dẫn của
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là 6.616 xã, phường, thị trấn (chiếm 73,31% tổng
số mô hình về phòng, chống bạo lực gia đình đang triển khai); số còn lại do
ngành khác hướng dẫn. Theo chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao tại Quyết định
215/QĐ-TTg ngày 06/2/2014 thì đến năm 2020 đạt trên 90% (miền núi khó khăn,
vùng sâu, vùng xa đạt trên 70%) số xã, phường, thị trấn nhân rộng mô hình
phòng, chống bạo lực gia đình.
Đến năm
2017, có trên 35.000 câu lạc bộ Xây dựng gia đình hạnh phúc được duy trì tại cộng
đồng.
Đến năm
2017, cả nước có trên 35.000 địa chỉ tin cậy tại cộng đồng được thành lập và
duy trì.
Trong 2
năm 2017 - 2018, thành phố đã tổ chức 54 lớp tập
huấn kiến thức tiền hôn nhân cho 5.151 học viên nam, nữ